Những âm hưởng của Nelson Mandela

|

NDO - NDĐT-Ngày 15-12-2013, toàn thể nhân dân Nam Phi đã tiễn đưa Nelson Mandela, người con ưu tú, người mang lại ánh sáng cho đất nước Nam Phi về nơi an nghỉ cuối cùng tại quê nhà. Trước đó, ngày 10-12-2013, gần 100 vị nguyên thủ quốc gia, lãnh đạo tôn giáo và hoàng tộc đã đến dự tang lễ cố Tổng thống Nelson Mandela – một trong những vị lãnh tụ kiệt xuất nhất của nhân loại trong thế kỷ 20.

Những đóng góp to lớn của ông trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid, chống đói nghèo, bất bình đẳng đã được đất nước Nam Phi cùng nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế trên thế giới vinh danh bằng rất nhiều giải thưởng, tiêu biểu là giải thưởng Nobel hòa bình năm 1993, giải thưởng Lenin của Liên Xô và giải thưởng Tự do của Mỹ. Đặc biệt, tháng 11-2009, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 64 đã thống nhất lấy ngày 18-7 là “Ngày quốc tế Nelson Mandela”. Mặc dù bắt đầu từ thời điểm này, chúng ta buộc phải làm quen với việc từ nay sẽ không còn có được những đóng góp, chỉ bảo trực tiếp của Nelson Mandela, nhưng trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội chúng ta sẽ vẫn còn nhận được nguồn trợ lực to lớn từ chính những di sản mà ông để lại.

Tất nhiên, cảm nhận của mỗi người về những âm hưởng của Nelson Mandela là không thể giống nhau. Với người viết, chặng đường hoạt động hơn 40 năm của Nelson Mandela đang giúp gợi mở những phương thức giải quyết nhiều vấn đề quốc tế nóng bỏng hiện nay.

Minh chứng cho điều này, người viết xin lựa chọn ra một vấn đề gai góc nhất của đất nước Nam Phi – vấn đề chống phân biệt chủng tộc. Điều kỳ lạ ở chỗ, chỉ trong một thời gian hết sức ngắn ngủi từ năm 1994 – 1999 (nhiệm kỳ Tổng thống duy nhất của ông) vấn đề này đã được Nelson Mandela giải quyết thành công bằng những biện pháp tưởng chừng như rất đơn giản nhưng đã đem đến kết quả ngoài sức tưởng tượng.

Bắt đầu từ năm 1948, sau khi thắng cử Đảng Quốc gia Nam Phi của những người da trắng đã lấy chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid làm nền tảng cho mọi chính sách. Chính sách phân biệt đối xử đã đẩy những người da đen ở một đất nước vừa thoát ra khỏi chế độ thực dân trở lại cuộc sống địa ngục như thời Trung cổ, và cũng chính vì sự tàn ác cao độ mà chủ nghĩa Apatheid thường được so sánh với chủ nghĩa phát xít. Dù Liên Hợp Quốc đã nhiều lần thông qua các nghị quyết lên án chính quyền Pretoria nhưng chế độ Apartheid vẫn duy trì cho mãi đến cuối năm 1990. Sau hơn bốn thập kỷ, cuộc đấu tranh của những người da đen dưới sự lãnh đạo của Đại hội dân tộc Phi (ANC) cuối cùng cũng giành được thắng lợi. Chính Tổng thống da trắng Frederik W. de Klerk đã phải tuyên bố bãi bỏ đạo luật Apartheid. Nelson Mandela trở thành Tổng thống da đen đầu tiên của Nam Phi sau cuộc bầu cử đa chủng tộc năm 1994.

Ngay sau lễ nhậm chức, Tổng thống Nelson Mandela phải đối mặt với nguy cơ của một vòng xoáy bạo lực mới xuất phát từ sự hận thù của người da đen, sản phẩm tất yếu của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid. Tâm lý “có vay có trả” âu cũng là lẽ thường tình của con người, nhất là với những món nợ máu chồng chất suốt những năm tháng dài. Trong suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, cách thức phổ biến nhất đối với những vấn đề tương tự đều được giải quyết bằng một công thức quen thuộc – “máu phải trả bằng máu”. Công thức này đã được áp dụng tại tòa án Nuremberg và Tokyo sau năm 1945 nhằm trừng trị các tội phạm chiến tranh phát xít Đức và quân phiệt Nhật. Kết cục cuối cùng thì cũng đã rõ, vòng quay “ân oán” lại tiếp tục không có điểm dừng.

Trước nguy cơ đi lại vết xe đổ của lịch sử nhân loại, Tổng thống Nelson Mandela đã cho ra đời Đạo luật Đoàn kết hòa giải quốc gia theo tinh thần: “Sự tha thứ sẽ dẫn đến sự thú nhận, và sự hàn gắn sẽ đến”. Tư tưởng này cũng đã được ghi nhận trong Lời tựa của Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi: “Có một nhu cầu hiểu biết nhưng không để trả thù, nhu cầu sửa sai nhưng không để trả oán, nhu cầu hỉ xả nhưng không biến thành nạn nhân”. Thực ra công thức hóa giải sự thù hận và định kiến bằng biện pháp hòa giải này không phải là mới. Từ xa xưa, người Á Đông đã có tư tưởng “oán nên cởi không nên thắt” và chỉ có “lấy ân để trả oán” thì mới có thể thay đổi những mối quan hệ “ân oán” triền miên. Tuy nhiên, để làm được điều này lại không dễ chút nào, chỉ những người có đủ nghị lực cũng như lòng vị tha cao cả mới có khả năng, nhưng đáng buồn, những người như vậy lại không nhiều. Chính vì thế, hòa giải giữa các chủng tộc, giữa các quốc gia lại còn khó hơn gấp bội phần bởi sự đa dạng và phức tạp của những mối hận thù.

Trên thực tế, quan điểm bao dung, phi bạo lực của N. Mandela đã gặp phải không ít những chỉ trích từ cả hai phía. Ngay trong nội bộ ANC, một số thành viên đã phản đối găy gắt cuộc đối thoại của ANC (do N. Mandela dẫn đầu) với chính phủ. Điều đáng học hỏi từ N. Mandela chính là việc ông đã phổ quát hóa được tư tưởng hòa giải. Ngày 10-5-1994, N. Mandela đã thành lập Ủy ban thừa nhận sự thật và hòa giải. Bằng uy tín cũng như sự chân thành của mình (ông đã phải ngồi tù 27 năm dưới chế độ Apartheid), Tổng thống N. Mandela đã thuyết phục được tất cả người dân Nam Phi chấp nhận nguyên tắc – chỉ cần thừa nhận thì tội ác cũng có thể được khoan hồng. Đây thực sự là điều vô cùng khó khăn, bởi những người da đen phải vượt lên được sự thù hận của chính họ, còn những người da trắng phải đủ dũng cảm để công nhận những tội ác đã phạm phải dưới chế độ Apartheid. Trên hết, mọi người dân Nam Phi phải chiến thắng được nghi ngại về sự trả thù. Chính nguyên tắc hòa giải này đã đem đến một kết quả kỳ diệu – đất nước Nam Phi đã được hưởng một bầu không khí hòa giải, đó cũng chính là khởi nguồn cho những thành công về kinh tế sau này, giúp Nam Phi mau chóng vươn lên và trở thành một thành viên của nhóm BRICS chỉ trong vòng một thập kỷ.

Đúng là giờ đây, chủ nghĩa Apartheid đã bị xóa bỏ hoàn toàn tại Nam Phi, nó chỉ còn được nhắc đến như một vết nhơ của lịch sử nhân loại. Mặc dù vậy, những biến tướng của nó thì vẫn đang đeo bám dai dẳng đời sống quốc tế đương đại. Một trong số đó chính là sự phân biệt đối xử giữa các quốc gia. Đó là sự áp đặt của các nước lớn từ trực tiếp hay được che đậy bởi những tổ chức đa phương. Đó là những chính sách cường quyền hay bảo hộ mậu dịch được ngụy trang bằng những ngôn từ hoa mỹ thời hiện đại như bảo vệ nhân quyền, can thiệp nhân đạo hay chống bán phá giá.

Thậm chí, như một căn bệnh kinh niên, sự phân biệt đối xử giữa nhóm các nước giàu và các nước nghèo ngày càng bộc lộ rõ ràng hơn, chẳng cần che đậy, tiêu biểu như tại các vòng đàm phán Doha về tự do thương mại hay tại các hội nghị về chống biến đổi khí hậu của LHQ (COP). Một nghịch lý là ai cũng biết, sự phân biệt đối xử tất sẽ dẫn đến những va chạm, xung đột, thậm chí là có thể là chiến tranh, nhưng người ta vẫn cố giải quyết nó theo những kiểu bạo lực cổ điển. Hệ quả là sự thù hận, thiếu hụt niềm tin giữa các quốc gia ngày một sâu sắc, đơn cử như tình hình tại Trung Đông – Bắc Phi hiện nay.

Trong lễ tang của cố Tổng thống N. Mandela, khi được chứng kiến cái bắt tay giữa Tổng thống Mỹ B. Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro, người ta lại bắt đầu hy vọng đây sẽ là điểm khởi đầu cho quá trình hòa giải giữa hai quốc gia. Nhưng thực tế, đây không phải là lần đầu tiên các nhà lãnh đạo hai quốc gia thù địch này có những cái bắt tay “lịch sử”, vậy mà lần nào cũng vậy, một chính sách phân biệt đối xử với đất nước Cuba vẫn cứ tiếp diễn. Lý do thật đơn giản, người ta vẫn chưa thực sự muốn xóa bỏ nó.

Thành công của Nelson Mandela trong việc xóa bỏ chủ nghĩa Apartheid đã chỉ ra rằng, nếu chúng ta không thực sự muốn cởi bỏ hận thù, không thực sự vị tha với những hành động thù địch trong quá khứ hay hiện tại thì chắc chắn sẽ mãi không thoát ra khỏi vòng tròn luẩn quẩn của thù hận và nghi kỵ. Âm hưởng của Nelson Mandela rất có thể sẽ giúp chúng ta sống có nhau hơn, vì nhau hơn.