Trên thực tế, khối liên minh cầm quyền của Thủ tướng Shinzo Abe (gồm đảng Dân chủ Tự do và đảng Công minh) đã giành thắng lợi áp đảo với 325 trên tổng số 480 ghế của Hạ viện trong cuộc bầu cử ngày 14-12-2014.
Nhìn dưới góc độ quyền lực của chính quyền, đúng như phát biểu ngay sau khi kết quả bầu cử sơ bộ được công bố của Chủ tịch đảng Dân chủ Tự do (LDP), Thủ tướng Shinzo Abe: “thắng lợi này phản ánh sự tín nhiệm của người dân dành cho LDP". Bởi với việc tiếp tục duy trì được ưu thế tuyệt đối tại Hạ viện, chính phủ của Thủ tướng Abe sẽ dễ dàng thông qua các dự án luật hơn, kể cả trong tình huống có sự phản đối của Thượng viện.
Nhưng nếu căn cứ vào bối cảnh uy tín của chính quyền Thủ tướng Abe đang giảm sút do một loạt vấn đề, thì rõ ràng sự nhẫn nại của cử tri Nhật Bản mới là nguyên nhân chủ yếu giúp liên minh cầm quyền giành thắng lợi. Từ tháng 4-2014, Thủ tướng Abe đã vấp phải phản ứng gay gắt của dân chúng trước quyết định tăng thuế tiêu dùng từ 5% lên 8%. Các chuyên gia kinh tế Nhật còn cho rằng, đạo luật tăng thuế này là nguyên nhân chính khiến nền kinh tế Nhật Bản quay trở lại tình trạng suy thoái trong quý II và III (theo thông báo của Văn phòng Nội các Nhật Bản, GDP của nước này trong quý II đã giảm 7,1%, mức giảm mạnh nhất tính từ đầu năm 2009 đến nay, còn quý III tiếp tục giảm 1,6%). Uy tín của chính quyền Thủ tướng Abe càng bị ảnh hưởng sau vụ việc hai nữ Bộ trưởng Công nghiệp, thương mại và kinh tế Yuko Obuchi và Bộ trưởng Tư pháp Midori Matsushima phải từ chức vì những cáo buộc riêng tư. Ngoài ra, việc chính quyền Abe tỏ ra hào hứng với hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) hay xem xét lại những ràng buộc về an ninh trong Hiến pháp, như luật cấm xuất khẩu vũ khí hay “quyền phòng thủ tập thể” v.v., cũng khiến không ít người dân Nhật phản đối, nhất là từ phía đảng đối lập Dân chủ.
Đương nhiên, trong bối cảnh như vậy mà cử tri Nhật vẫn quyết định tiếp tục trao cơ hội cho chính quyền Thủ tướng Abe thì chắc chắn phải có lý do. Cái lý của cử tri Nhật có thể là:
Thứ nhất, tuy còn nhiều điểm hạn chế nhưng rõ ràng chỉ sau gần hai năm thực hiện, chính sách cải cách kinh tế của Thủ tướng Abe (còn gọi là chính sách Abenomics) cũng đã đem đến những dấu hiệu khả quan, ít nhất là trong so sánh với những lãnh đạo tiền nhiệm. Ngay sau khi Thủ tướng Abe thực hiện hai trong số ba nội dung chính của chính sách Abenomics là nới lỏng tiền tệ và tăng chi tiêu công, đơn cử như gói cứu trợ tài chính 99,4 tỷ yên, đã giúp Nhật Bản lần đầu tiên trong nhiều năm qua thoát khỏi tình trạng giảm phát. Nền kinh tế Nhật đã đạt được mức tăng trưởng trên 3% vào năm 2013. Tuy tình trạng suy thoái có thể khiến mức tăng GDP của Nhật trong năm 2014 chậm lại, thậm chí ở mức âm 0,4% đến 0,9%, nhưng các dự báo đều cho rằng kinh tế Nhật sẽ tiếp tục được đà tăng trưởng vào năm 2015 (vào khoảng 0,7% - 2,5%). Điều này có lẽ đã khiến cử tri Nhật hy vọng vào sự thành công tiếp theo khi Thủ tướng Abe thực hiện tiếp nội dung thứ 3 của chính sách Abenomics là cải tổ các ngành kinh tế nhạy cảm (như thị trường lao động, nông nghiệp v.v.). Cũng cần nhấn mạnh thêm sức nặng của những thành công từ Abenomics trong bối cảnh nền kinh tế Nhật Bản rơi vào tình trạng trì trệ trong suốt 20 năm qua.
Thứ hai, người dân Nhật Bản có lẽ đã quá mệt mỏi với sự bất ổn chính trị tại đất nước Mặt Trời mọc này. Trong 20 năm qua, nước Nhật đã có tới 15 vị Thủ tướng, nhiều hơn bất kỳ cường quốc nào. Chỉ tính riêng từ sau khi Thủ tướng Abe từ chức vào hồi năm 2007, chính phủ Nhật Bản đã có thêm 5 nhà lãnh đạo, thậm chí Thủ tướng tiền nhiệm Naoto Kan đã buộc phải từ chứcchỉ sau chưa đầy một năm tại vị. Và có lẽ chính sự từ nhiệm của Thủ tướng N. Kan đã giúp cử tri Nhật hiểu rằng, thêm một sự xáo trộn nữa trên chính trường chỉ khiến tương lai của Nhậtt Bản thêm phần ảm đạm, đặc biệt trong bối cảnh nước Nhật đang phải đối mặt với quá nhiều vấn đề cả từ bên trong lẫn ngoài nước.
Thứ ba, chính cương lĩnh tranh cử “Phục hồi kinh tế, con đường duy nhất” của LDP đã thuyết phục được dân chúng. Hơn thế, tuy là người luôn cổ súy cho một cuộc cải cách triệt để nền kinh tế Nhật, nhưng chính tuyên bố của Thủ tướng Abe về việc lùi thời hạn tăng thuế tiêu thụ đến tháng 4-2017 cho thấy ông không phải là con người quá cứng nhắc. Quyết định này đã có tác động đến những người dân đang lo lắng phải chịu thiệt thòi từ cuộc “đại phẫu” của chính phủ Abe.
Tuy nhiên, sự nhẫn nại của cử tri Nhật lại đang trở thành một thách thức to lớn đối với Thủ tướng Abe, bởi lẽ để thực hiện những cam kết trước bầu cử là điều không hề dễ dàng.
Ngay sau thắng lợi, Thủ tướng Abe đã vạch ra những nhiệm vụ của chính phủ mới: “Trước hết, chúng tôi sẽ ưu tiên tối đa cho việc phục hồi kinh tế, đồng thời thúc đẩy nền ngoại giao chiến lược mang tầm nhìn toàn cầu để nâng cao vị thế của Nhật Bản và bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhật Bản cũng sẽ triển khai chính sách ngoại giao kinh tế. Cùng với đó, chúng tôi sẽ hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến bảo đảm an ninh quốc gia trong kỳ họp tới để bảo vệ sinh mạng và cuộc sống hạnh phúc của người dân”.
Trước hết, với nhiệm vụ cải cách nền kinh tế Nhật Bản, Thủ tướng Abe sẽ phải đối mặt với những phản ứng chắc chắn có, kiểu như đối với đạo luật tăng thuế tiêu thụ, khi đụng chạm tới những ngành kinh tế nhạy cảm, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp hay năng lượng hạt nhân. Trong suốt thời gian dài, nền kinh tế Nhật Bản luôn trong tình trạng trì trệ không chỉ bởi đó là hậu quả của sự phát triển bong bóng, mà còn bởi các nhà lãnh đạo tiền nhiệm đã không thể vượt qua những rào cản từ chính mô hình “ưu tiên xuất khẩu, bảo hộ bên trong”. Trong bối cảnh các liên kết kinh tế khu vực và toàn cầu phát triển mạnh mẽ, chính sách Abenomics chỉ có thể “cắt cơn” giảm phát, còn để kinh tế Nhật có thể tăng trưởng bền vững, chính quyền Abe không thể né tránh việc mở cửa thị trường nội địa. Làm thế nào để đối phó cùng lúc sức ép của doanh nghiệp trong nước và sức ép mở của từ bên ngoài rõ ràng là bài toán không hề đơn giản đối với chính phủ Abe. Ngoài ra, trước sự cạnh tranh dữ dội từ những cường quốc mới nổi, hiệu quả của chính sách “ngoại giao ODA” cũng là một vấn đề không đơn giản đối với Thủ tướng Abe.
Với nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, Thủ tướng Abe cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải. Tư tưởng xuyên suốt của Thủ tướng Abe là muốn đưa Nhật Bản trở lại trạng thái bình thường. Điều này thể hiện qua những nỗ lực của ông từ việc thành lập Bộ Quốc phòng (năm 2007) đến việc dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí và khôi phục quyền phòng thủ tập thể (năm 2014) và giờ là thay đổi Điều 9 của Hiến pháp v.v. Tuy nhiên, chính trạng thái “bình thường” lại khiến chính phủ Abe phải đối mặt với những phản ứng của các nước trong khu vực, trước hết là từ Trung Quốc. Hơn nữa, khi đó quan hệ an ninh với Mỹ chắc chắn sẽ phải có những điều chỉnh tương thích, và đây lại là điều sẽ tác động mạnh tới Nhật Bản trên cả phương diện an ninh lẫn kinh tế. Trên thực tế, Thủ tướng Abe khó có thể đưa ra câu trả lời về chiều hướng của những tác động này.
Nếu so sánh với quyết định của cử tri Mỹ trong cuộc bầu cử quốc hội giữa nhiệm kỳ cách đây hơn tháng, rõ ràng sự kiên nhẫn của cử tri Nhật Bản lại đang trở thành một thách thức đối với Thủ tướng Abe.