Lại báo động đỏ đối với hệ thống luật pháp quốc tế

|

NDO - NDĐT- Hơn 20 năm qua, kể từ sau khi trật tự hai cực đối đầu Xô – Mỹ sụp đổ, hệ thống luật quốc tế đang ngày càng tỏ ra không theo kịp với những biến đổi nhanh và mạnh mẽ của đời sống quốc tế. Dù vẫn biết đây là điều khó tránh khỏi nhưng trước mỗi biến đổi của thực tiễn mà luật định chưa thể kiểm soát vẫn khiến cho cộng đồng quốc tế quan ngại. Có rất nhiều những ví dụ minh chứng cho tính hạn chế của hệ thống luật pháp quốc tế đương đại, người viết xin chọn ra ba ví dụ điển hình dưới đây.

Hãy bắt đầu từ chính sự điều chỉnh của các nước theo hướng tăng cường hợp tác, liên kết. Chiến tranh lạnh kết thúc đã mở ra cơ hội cho tất cả các nước trong việc thi hành chính sách mở cửa, tăng cường hội nhập quốc tế. Giờ đây, thật khó khăn trong việc tìm một quốc gia nào đó không tham gia vào bất cứ một tổ chức khu vực, liên khu vực hay toàn cầu nào. Nhưng cũng chính việc phải tuân thủ các luật chơi đa phương mà trong không ít tình huống, chủ quyền quốc gia bị đe dọa không phải từ một nước mà từ chính tổ chức quốc tế mà nó là thành viên. Bắt đầu từ cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1990 – 1991 rồi đến cuộc chiến tranh Kosovo năm 1999 và đỉnh điểm là cuộc chiến tranh xâm lược Iraq của Mỹ năm 2003, tất cả đều liên quan tới những quyết định của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA).

Đúng là cơ chế HĐBA đã có đóng góp vô cùng quan trọng trong việc gìn giữ an ninh, hòa bình cho nhân loại bằng cách hạn chế những chính sách đơn phương hiếu chiến của một quốc gia đơn lẻ. Tuy nhiên, không phải mọi quyết định của HĐBA đều chính xác và chặt chẽ, điển hình như những Nghị quyết về xung đột Israel – Palestin và những kẽ hở này rất dễ bị một số nước lợi dụng để thực hiện những toan tính cá nhân. Các quyết định như vậy của HĐBA chưa bao giờ bị xem xét lại, điều này đã tồn tại suốt từ thời điểm thành lập năm 1945 đến nay. Mặt khác, HĐBA cũng tỏ ra thụ động trước những vi phạm chủ quyền của một quốc gia thành viên. Điển hình như trong cuộc chiến tranh xâm lược Iraq năm 2003, HĐBA đã không có bất cứ một chế tài nào đối với Mỹ. Có lẽ tất cả những tín hiệu cảnh báo đối với HĐBA là chưa đủ mạnh và vì thế, việc Nghị quyết 1973 về Libya (năm 2011) bị các nước phương Tây lợi dụng để tiến hành không kích và tước đoạt chủ quyền của đất nước nhỏ bé chỉ với năm triệu dân này âu cũng là lẽ tất nhiên. Chắc sẽ còn phải lâu nữa cung cách làm việc của HĐBA mới có thể thay đổi được, nhất là khi người ta lại chỉ đang tập trung vào hướng tăng thêm số lượng thành viên thường trực của cơ chế này. Hệ quả tất yếu của sự chậm đổi mới của HĐBA là an ninh và hòa bình vẫn luôn là nỗi lo của nhiều quốc gia, trước hết là với những nước đang phát triển.

Tất cả đều hiểu, khi các nước đều tập trung vào các mục tiêu phát triển thì đương nhiên cạnh tranh kinh tế cũng sẽ ngày một gia tăng, thậm chí nguy cơ khủng hoảng cũng sẽ lớn dần. Để đối phó, không ít các cơ chế hợp tác mới đã được hình thành. Năm 1999, G20 đã ra đời sau cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997 tại Đông Nam Á. Trong gần 10 năm, khi các nước thành viên còn đang loay hoay tìm kiếm một cơ chế làm việc thích hợp (lâu tới mức khiến cho nhiều người không còn “nhớ” đến sự tồn tại của nó) thì cơn bão khủng hoảng tài chính tiếp theo đã ập tới vào năm 2008. G20 lại được “tái sinh” tại cuộc gặp thượng đỉnh năm 2009 tại London. Trên thực tế, cuộc khủng hoảng kinh tế lần này và rộng ra là đối với những vấn đề phát triển nói chung, đòi hỏi cần có sự hợp tác bình đẳng và sâu rộng hơn rất nhiều. Tuy nhiên, cung cách làm việc của G20 vẫn vậy, đơn cử như cam kết thiết lập một quỹ dành cho các nước đang phát triển để thúc đẩy tăng trưởng (khoảng 1.000 tỷ USD) vẫn được các nền kinh tế mạnh nhất hiểu như là một sự “ban ơn” chứ không phải là trách nhiệm chung. Sự phân hóa giữa nhóm nước giàu và nhóm nước nghèo vẫn rất sâu sắc trong G20. Kết quả là hơn ba năm qua, những quyết định của G20 vẫn chỉ nằm trên bàn hội nghị và luôn đi sau những biến cố của đời sống kinh tế quốc tế. Sự bế tắc của vòng đàm phán Doha hay những tranh luận bất tận tại các hội nghị về biến đổi khí hậu của LHQ,... là những lời cảnh báo rất rõ ràng về những lỗ hổng của hệ thống luật quốc tế đương đại.

Ví dụ cuối cùng liên quan tới áp lực từ chính sự phát triển của một số quốc gia. Ngày 22-11-2013, tại một điễn đàn an ninh ở thành phố Halifax, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel tuyên bố Washington sẽ khẳng định chủ quyền ở Bắc Cực. Một ngày sau, 23-11, chính phủ Trung Quốc tuyên bố thành lập khu vực nhận dạng phòng không (ADIZ). Tuy với hai nội dung rất khác nhau nhưng cả hai tuyên bố này lại có chung một tín hiệu cảnh báo đối với hệ thống luật quốc tế: không gian quốc tế.

Từ trước tới nay, hệ thống luật quốc tế chủ yếu nhằm điều chỉnh các mối quan hệ liên quan tới chủ quyền quốc gia hoặc quan hệ giữa chúng còn khu vực quốc tế (không phận, biển cả, Bắc Cực, Nam Cực,…) mặc định là “của chung” tất cả nhân loại thể hiện trước hết ở quyền tự do đi lại hay tự do khai thác. Vào thế kỷ 17-18, tức là trước khi hình thành hệ thống luật quốc tế, khi mà tư tưởng tự do khai thác tài nguyên thiên nhiên của Adam Smith còn đang thống trị thì việc một quốc gia thông qua các cuộc chinh phạt “những vùng đất mới”, biến những khu vực “vô chủ” thành sở hữu riêng không có gì lạ. Những hoạt động này đã tạo ra một thời kỳ “tự do cạnh tranh” và đó cũng chính là cội nguồn của hai cuộc thế chiến tàn khốc nhất trong lịch sử. Chính vì thế, ngay ở thời mốc hình thành, hệ thống luật quốc tế đã chú ý đến việc ngăn chặn sự “tự do” này bằng việc phân định chủ quyền quốc gia và khu vực quốc tế.

Tuy nhiên, cùng với thời gian những nhà làm luật quốc tế hầu như chỉ tập trung đối phó với những vấn đề liên quan tới chủ quyền quốc gia. Bởi thế, câu hỏi được đặt ra là: Nếu tuyên bố của Mỹ không đụng chạm tới Nga tại Bắc Cực và ADIZ của Trung Quốc không đụng chạm tới Nhật Bản và Hàn Quốc thì liệu cộng đồng quốc tế sẽ ứng xử thế nào trước những vụ việc tái hiện chủ nghĩa Adam Smith? Việc một số quốc gia, thường là những nước có đủ năng lực hơn, sẽ tìm cách xâm lấn không gian quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển là điều đã được tiên liệu nhưng tới giờ cộng đồng quốc tế vẫn chưa có sự chuẩn bị để đối phó thì thật đáng ngạc nhiên.

Đúng là bất kể quy định pháp luật nào từ trong nước tới quốc tế đều nảy sinh từ nhu cầu thực tế, do vậy việc đòi hỏi luật pháp luôn phù hợp với thực tiễn là vô cùng khó. Tuy nhiên, chúng ta đang sống trong một thế giới văn minh và dân chủ hơn nhiều so với kiểu tự phát thời cận đại, mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước lớn, chắc chắn đều nhận thức được mối quan hệ giữa “cái tôi” và “cái chúng ta” trong đời sống quốc tế đương đại, và vì thế, trước những tín hiệu cảnh báo trên việc điều chỉnh luật pháp quốc tế là hoàn toàn có thể.