Quả thật, việc nền kinh tế thứ 27 của thế giới gục ngã trước căn bệnh “nợ công” có gì đó thật khó giải thích như những câu chuyện về các vị thần trên đỉnh Olympus vậy.
Trước hết, là bởi nợ công hoàn toàn không phải là căn bệnh nan y. Từ cổ chí kim, nợ công là một căn bệnh mãn tính mà chẳng chính phủ nào có thể miễn nhiễm. Đơn cử như vào đầu thập kỷ 80 của thế kỷ 20, một loạt các nước đang phát triển, nhiều nhất là tại Mỹ Latinh, cũng đã từng lâm vào tình trạng như Hy Lạp, vì thế còn được gọi là thập kỷ nợ của thế giới thứ 3. Tính đến thời điểm 31-1-2015, theo đồng hồ nợ công của The Economist, nợ công của Nhật Bản là cao nhất thế giới, chiếm tới 224,9% GDP (hơn 12.570 tỷ USD). Nước đứng ngay sau Nhật Bản chính là siêu cường Mỹ, nợ công của nước này đạt 11.700 tỷ USD, chiếm 74,6% GDP (năm 2014, nợ công của Mỹ còn vượt ngưỡng 17.500 tỷ USD). Tuy vậy, số lượng các quốc gia phải tuyên bố vỡ nợ lại không nhiều, đơn giản bởi cảnh “sống chung với lũ” buộc quốc gia nào cũng phải có những phương án nhằm cố gắng kiểm soát không để vấn đề nợ công đẩy nền kinh tế rơi vào cảnh vỡ nợ.
Hơn nữa, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ 2, sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng thế giới (WB)…, cũng giúp nhiều quốc gia có thêm năng lực đối phó với vấn đề nợ công thông qua các gói cứu trợ tài chính. Ngay khi gặp khốn khó, Hy Lạp cũng lập tức nhận được những gói cứu trợ, thậm chí là vượt mức yêu cầu (đợt 1 vào tháng 5-2010 Hy Lạp nhận được 110 tỷ euro, và đợt 2 vào tháng 2-2012 là 130 tỷ euro). Kể từ khi nhận các gói cứu trợ, bản thân Chính phủ Hy Lạp cũng luôn cố gắng tuân thủ những điều kiện khắt khe của các chủ nợ. Trong khi đó, năm 2009, nợ công của Hy Lạp ở mức 12,7%, tuy gấp hơn bốn lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro (mà cũng chỉ có duy nhất Phần Lan là đạt chuẩn này) nhưng rõ ràng cũng không phải là quá cao. Cùng cảnh ngộ với Hy Lạp, trong khu vực đồng euro còn có Síp, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italy. Mặc dù tất cả các quốc gia này đều không nhận được sự trợ cấp ưu ái như Hy Lạp, nhưng không có nước nào rơi vào tình cảnh giống Athens. Điển hình là Ireland, với gói trợ cấp 85 tỷ euro nước này đã thoát khỏi thảm cảnh nợ công sau bốn năm.
Cái sự lạ thứ hai chính là các gói cứu trợ quá hào phóng của các chủ nợ. Dù khả năng hoàn trả của Hy Lạp là hết sức thấp (nguồn lực tài chính chủ yếu trông chờ vào du lịch, xuất khẩu bông và dầu ô liu bị giảm sút mạnh), nhưng các chủ nợ vẫn luôn cho Athens vay vượt ngưỡng yêu cầu. Đơn cử như khoản giải ngân đầu tiên 14,5 tỷ euro trong gói cứu trợ đợt 1 (ngày 19-5-2010), trong khi Hy Lạp chỉ cần 8,5 tỷ euro. Kỳ lạ hơn, kể cả sau sự kiện 30-6-2015, các chủ nợ EU, Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và IMF vẫn tuyên bố sẽ cho Hy Lạp vay khoảng 74 tỷ euro, vượt xa con số 53,4 tỷ euro mà chính quyền Thủ tướng Tsipras đệ trình lên hôm 12-7-2015.
Một sự lạ đời nữa chính là quá trình đàm phán về vấn đề nợ giữa Hy Lạp và các chủ nợ. Hiếm có quá trình đàm phán nợ nào được giới truyền thông quan tâm như trong trường hợp của Hy Lạp và điều được đăng tải nhiều nhất lại không phải vấn đề nợ mà là khả năng Athens rời khu vực đồng euro. Không biết có phải vì thế mà cuộc đàm phán tạo ra cảm giác như một cuộc chiến về chủ quyền hơn là giữa chủ nợ và con nợ. Một điều hiển nhiên, để có thể nhận được những gói cứu trợ tài chính, quốc gia vay nợ buộc phải chấp nhận những điều kiện ngày một ngặt nghèo từ các chủ nợ, trường hợp vay nợ IMF của Indonesia hay Hàn Quốc sau khủng hoảng tài chính năm 1997 là những ví dụ điển hình. Trong trường hợp Hy Lạp thì ngược lại, những nhà đàm phán của Athens lại lấy ngay “nguy cơ vỡ nợ” làm con bài để mặc cả. Kịch tính nhất có lẽ chính là cuộc trưng cầu ý dân hôm 5-7-2015, kết quả có tới 61 % cử tri Hy Lạp nói “không” với những điều kiện của các chủ nợ châu Âu, bất chấp đang trong tình trạng rất cần tiền.
Dù gì thì giờ đây cả hai phía đều buộc phải đối mặt với một thực tế: nền kinh tế Hy Lạp đã rơi vào tình trạng vỡ nợ. Nhưng cũng chính thực tế này lại đang đẩy cả EU và Hy Lạp vào một tình trạng “dở khóc, dở cười”.
Với EU, một mặt không muốn mất trắng khoản nợ 320 tỷ USD nhưng mặt khác lại cũng không thể sử dụng các biện pháp đòi nợ cứng rắn. Điều lo ngại hơn cả đối với EU chính là việc phải khai trừ Hy Lạp ra khỏi khu vực đồng euro, thậm chí là ra khỏi cả EU. Ngoài nỗi lo sự phản ứng domino từ những con nợ khác, thì chỉ riêng với tư cách một thành viên lâu đời thuộc cả hai tổ chức EU và NATO của Hy Lạp cũng đã khiến cho bất cứ chủ nợ nào cũng phải cân nhắc thiệt hơn. Trong tình trạng nợ nần hiện nay, khó có thể khẳng định sau khi Hy Lạp rời khỏi những cơ chế này sẽ không đi tìm một chỗ dựa mới, sẽ là thảm họa với EU và Mỹ nếu đó lại là Nga.
Còn về phần mình, Hy Lạp cũng khó có thể rời khỏi EU, bởi ngoài số nợ lên tới 170% GDP thì trước hết, chính quyền của Thủ tướng Tsipras cần phải duy trì được cuộc sống hằng ngày cho người dân Hy Lạp. Vào thời điểm hiện tại, những gói cứu trợ tài chính của bộ ba chủ nợ lại chính là nguồn dinh dưỡng duy nhất giúp Athens đứng vững.
Một điều kỳ lạ nữa lại đang được hai bên tạo ra – ngày 12-7-2015, hội nghị thượng đỉnh khẩn cấp Liên hiệp châu Âu đã giải quyết nghịch lý: EU không muốn xóa nợ thì phải cho vay thêm còn Hy Lạp muốn cơ cấu lại nợ (thực chất là muốn EU xóa nợ) thì phải vay tiếp, bằng cách “như cũ”! Chính quyền Thủ tướng Tsipras chấp nhận tất cả những điều kiện “thắt lưng buộc bụng” của bộ ba chủ nợ, đổi lại Athens sẽ nhận được gói cứu trợ thứ ba lên tới 86 tỷ euro trong vòng ba năm.
Giờ đây, kết quả của cuộc trưng cầu ý dân hôm 5-7-2015 chỉ còn mang tính biểu tượng về sự phản kháng của người dân Hy Lạp trước những điều kiện ngặt nghèo của chủ nợ. Nó đã bị ngay chính những người tổ chức ra nó chối bỏ, tất cả chỉ vì cảnh để cho những khoản nợ công phình ra quá ngưỡng chịu đựng.